Ngục quỷ
Phan_51 end
Phần 2
1. Động Dát Tiên:
Truyền thuyết động Dát Tiên
Theo truyền thuyết từ rất lâu trước đây, nơi này là một vùng rừng rậm nguyên sơ, mùa hạ, thông xanh hoa biếc che lấp cả mặt trời, khắp nơi hoa dại nở rộ; mùa đông tuyết trắng phủ kín núi rừng, một vùng trời màu bạc, giữa cánh đồng tuyết đủ loại động vật tự do chạy băng băng, người Ngạc Luân Xuân lấy săn bắn mà sống, đời đời ở đây sống cuộc sống hoà bình hạnh phúc. Không ngờ, có một ngày đột nhiên xuất hiện một ác ma ăn thịt người khổng lồ, khuôn mặt dữ tợn. Nó sống ở một sơn động ở đỉnh núi, rình rình, chỉ cần phát hiện thợ săn tiến vào rừng rậm, liền vươn ma chướng hại nguời, ngươi Ngạc Luân Xuân bị hại nhiều vô số. Người Ngạc Luân Xuân dũng cảm vì tiêu diệt ác ma này, đã nhiều lần kêu gọi thanh niên thợ săn lên núi đánh nhau với nó, nhưng đều vì yêu thuật lợi hại của nó mà thất bại. Người Ngạc Luân Xuân vẫn chưa đánh mất dũng khí và lòng tin, vẫn đấu tranh rất nhiều năm, cuối cùng cảm động đến Dát Tiên trên trời. Dát Tiên tỷ thí với ác ma, trước tiên để ác ma dịch tảng đá trước cửa động, kết quả ác ma thua, bọn họ lại so tiễn pháp, Dát Tiên dùng đá bắn trúng tâm một vòng tròn khổng lồ. Ác ma thấy bản lĩnh của Dát Tiên mạnh hơn mình rất nhiều, liền bỏ trốn mất dạng. Mọi người sợ ác ma quay lại rừng rậm, dựng một pho tượng đá Dát Tiên cầm cung tên trong tay trong cái động nó từng ở. Quả nhiên, ác ma ba lần nhìn qua biển, thấy Dát TIên sừng sững đứng đó cũng không dám trở về. Từ đó về sau, người Ngạc Luân Xuân tự do săn bắn, sinh hoạt ở rừng tùng núi Đại Hưng An. Để tưởng niệm Dát Tiên vì dân trừ hại, mọi nguời đổi tên động mà ác ma từng ở thành động Dát Tiên, đem ngọn núi có tảng đá có lỗ thủng kia gọi là núi Quật Lung.
Câu chuyện này về cơ bản giống với lời bạn Tô Bất Đạt kể, tuy nhiên ta rất thích cái màn “xuyên tạc” truyền thuyết của Cuồng tử, nó làm mình liên tưởng đến SM, cường hào đoạt thủ =))
2. Một ít về tộc Tiên Ti:
Tộc Tiên Ti là một chi của Đông Hồ, cư ngụ ở ngọn núi gọi là núi Tiên Ti ở Mạc Bắc. Là một trong 3 dân tộc cổ ở phía Bắc Trung Quốc. Sự hình thành bộ lạc Tiên Ti tương đối phức tạp, ngoài phần lớn là một chi phân ra từ bộ lạc Đông Hồ, còn có hậu duệ của bộ lạc Sơn Nhung thời Xuân Thu. Trước đây bọn họ du mục săn bắn ở trung bộ và bắc bộ núi Đại Hưng An, Trung Quốc.
Cuối thời Đông Hán, Tào Tháo đại phá Ô Hoàn, thì có một bộ phận nhập cư vào vùng Hoa Bắc Trung Quốc. Đây là thuỷ tổ của Mộ Dung Tiên Ti, trừ bộ lạc này ra, còn có một chi cư ngụ ở vùng núi Đại Hưng An phía bắc Trung Quốc (bây giờ là thành phố Hô Luân Bối Nhĩ khu tự trị Nội Mông Cổ đông bắc Trung Quốc), bộ lạc này gọi là Thác Bạt Tiên Ti. Tộc Tiên Ti lấy nơi cư ngụ là núi Tiên Ti mà đặt tên.
Căn cứ theo khảo chứng: thời kỳ Chiến quốc, tộc Tiên Ti và bộ lạc Ô Hoàn đều thuộc liên minh bộ lạc Đông Hồ, sau đó lần lượt trở thành một nhánh của Đông Hồ, ngôn ngữ và tập tục giống như Ô Hoàn. Giao thời Tần – Hán, Hung Nô đánh Đông Hồ xong, chúng lại chia các tộc ra, khôi phục lại tộc Tiên Ti và Ô Hoàn. Từ thế kỷ thứ hai, bộ lạc Tiên Ti không ngừng nam tiến và tây tiến, chiếm giữ vùng đất cũ của Hung Nô, phân bố đông tới Liêu Đông, tây tới Lũng Hữu.
Các chi bộ trong bộ lạc Tiên Ti phát triển cũng không giống nhau, đối với bộ lạc Tiên Ti nam tiến tây tiến, đồng hoá với Hung Nô, Đinh Linh, Cao Xa, Ô Hoàn, và người Hán, cho nên hình thành rất nhiều tộc mới, cơ bản có thể chia thành Tiên Ti phía đông, Tiên Ti phía bắc, và Tiên Ti phía tây. Tiên Ti phía đông trải qua thời Đàn Thạch Hoè, có thể sánh bằng liên minh bộ lạc mà phát triển thành các bộ phận Mộ Dung thị, Đoàn thị, Vũ Văn thị; Tiên Ti phía bắc chủ yếu là Thác Bạt Tiên Ti ở núi Đại Hưng An; Tiên Ti phía tây có Ngốc Phát thị, Khất Phục thị cùng Cam Túc, Thanh Hải Thổ Dục Hồn hợp thành.
Thác Bạt Tiên Ti sau khi nam tiến vào đại thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ, một trăm năm sau tiến vào phía bắc Hoa Bắc, ở Đại Đồng tỉnh Sơn Tây bây giờ xây dựng đại quốc, sau đổi thành Nguỵ, sau khi vào Trung Nguyên, xây dựng vương triều Bắc Nguỵ, thôn tính các dân tộc thiểu số phương Bắc.
Các nhà khảo cổ Trung Quốc năm 1980 phát hiện thạch động cổ xưa ở khu rừng núi Đại Hưng An trong biên giới thành phố Hô Luân Bối Nhĩ khu tự trị Nội Mông Cổ, hơn nữa trên vách động còn khắc chúc văn tế tự Bắc Nguỵ Thái Bình chân quân tứ niên (năm 443). Phát hiện này kết thúc sự tranh luận của giới sử học từ trước tơi nay, phá giải vấn đề nguồn gốc của tộc Tiên Ti.
Núi Đại Hưng Han mỹ lệ màu mỡ, thời cổ đại gọi là Kim Sơn, kéo dài từ đầu bắc sa mạc Hà Tây tới lòng chảo Tây Lạp Mộc Luân khu tự trị Nội Mông Cổ, toàn bộ dài 1400 km, rộng 150-300 km, từ trên cao nhìn xuống, giống như con con rồng dài xanh lục, ho cỏ um tùm, rừng rậm tốt tươi, sắc xanh và mùi hương thơm ngát của cây cối bao phủ khắp nơi, là khu rừng nguyên sinh lớn nhất Trung Quốc, diện tích khoảng 28 vạn km2.
Thạch động trong khu rừng núi Đại Hưng An, tên là động Dát Tiên. Quy mô ngoài động cũng không tính là lớn. Động sâu 90 thước, rộng 20 thước, cao 20 thước. Động nằm ở khu rừng thượng du sông Lặc Nã, cách Ngạc Luân Xuân thành phố Hô Luân Bối Nhĩ, Nội Mông Cổ 9km về hướng tây bắc, xung quanh động vẫn còn được bao phủ bởi rừng rậm nguyên sinh.
Trên vách động Dát Tiên có một khối đá khắc chúc văn, là Bắc Nguỵ Thái Vũ hoàng đế Thác Bạt Đảo phái đại thần Lý Sưởng, mang theo tế phẩm đến đây tế tổ. Toàn bộ chúc văn gồm 19 dòng 201 chữ.
Phía trước thạch động có một bãi đất bằng phẳng, dân tộc Tiên Ti trước đây trồng trọt trên bãi đất này. Xung quanh thạch động là rừng rậm nguyên sinh tươi tốt. Giữa núi có khe suối, giống như tiếng đàn, trầm bổng bên tai không dứt, thực sự là sơn thuỷ như mộng, giống như tiên cảnh.
“Nguỵ thư” viết, tù trưởng Tiên Ti Thác Bạt bộ Thác Bạt Mao, từng thành lập 26 bộ tộc, trong đó gồm 99 thị tộc liên minh, Mao được cử làm đại tù trưởng. Khi triều đình Đông Hán đánh bại Bắc Hung Nô, tù trưởng Thác Bạt bộ Thác Bạt Cật Phần nam tiến, trải qua “cửu nan bát trở”, liên tiếp chém giết, ra khỏi thâm sơn cùng cốc, vứt bỏ động Dát Tiên cổ xưa. Dẫn bộ chúng tiến vào vùng đất du mục của Bắc Hung Nô cũ. Cật Phần lập được công lớn, được hưởng uy vọng cao nhất bộ lạc. Con trai Cật Phần là Thác Bạt Lực Vi sau khi thôn tính một Lộc Hồi bộ lớn mạnh, các bộ tộc khác đều quy thuận Thác Bạt Lực Vi, trong khoảng thời gian rất ngắn, Thác Bạt Lực Vi trở thành đại tù trưởng chỉ huy hơn20 vạn kỵ binh, di chuyển về phía đại thảo nguyên Hô Luân Bối Nhĩ.
Thác Bạt Lực Vi giết người đứng đầu Bạch bộ, chư bộ lo sợ, Thác Bạt bồ từ đó chính thức giành được quyền chỉ huy, Lực Vi cũng kế thừa quyền làm đại tù trưởng. Sau khi Thác Bạt Lực Vi chết, trải qua nội chiến, đến năm 295, con trai Lực Vi là Lộc Quan kế thừa ngôi vị đại tù trưởng. Thuộc hạ của Lộc Quan là Y Lô dẫn binh đi mở rộng lãnh thổ về phía tây, xây dựng Nhạc thành. Đúng lúc này là loạn tám vương thời Tây Tấn, được thương nhân người Hán trợ giúp, năm 308 Y Lô thống lĩnh ba quân, năm 314 Y Lô lên làm đại vương, lập đại quốc. Năm 338, cháu của Lực Vi là Thập Dực Kiền tiếp nhận vị trí đại vương, bắt đầu lập niên hiệu, thiết lập đủ loại quan lại. Cháu Thập Dực Kiền là Thác Bạt Khuê năm 386 lại xây dựng đại quốc, đại phá Hung Nô, thế lực từ từ lớn mạnh, năm 398 định đô ở Bình thành, năm kế tiếp xưng vương, tức Bắc Nguỵ Đạo Vũ Đế.
Khụ, Đoàn thị, Mộ Dung thị, ko biết có phải đúng dòng họ 2 bợn chẻ trong Thiên Long bát bộ ko =))
Phần 3
1. Nguồn gốc họ Thác Bạt:
Có 2 giả thiết:
+) Xuất từ tên tộc Tiên Ti Thác Bạt bộ, vì hậu duệ Hoàng đế có Thác Bạt thị. Tương truyền Hoàng đế lấy vợ là Luy Tổ, sinh con trai là Xương Ý. Xương Ý lấy nữ nhi Thục Sơn là Xương Phó, sinh ra Cao Dương thị Chuyên Húc. Con trai út của Xương Ý là Khổn được phong ở Bắc Thổ (tức khu vực phía bắc Trung Quốc bây giờ). Hoàng đế lấy thổ đức chi thuỵ (may mắn của đất, ta cũng ko rõ lắm) xưng vương. Tộc Tiên Ti gọi “thổ” là “thác” gọi “hậu” là “bạt”, cố ý lấy “Thác Bạt” làm họ, xưng là Thác Bạt thị, ý là hậu duệ của Hoàng đế.
++) Hoàng đế có 4 phi và 25 con trai, trong đó 12 con trai kế thừa họ cha — họ Cơ, còn 13 con trai khác sửa họ Cơ thành họ khác. Nguyên phi Tây Lăng thị, hiệu là Luy Tổ, sinh được ba người con: Xương Ý, Huyền Hiêu, Long Miêu. Con trưởng Xương Ý hàng cư (chỉ con cái vua chúa bị giáng xuống làm chư hầu) Nhược Thuỷ, sinh ba người con: con trưởng tên Kiền Hoang, Kiền Hoang sinh Chuyên Húc (Cao Dương thị, sau là 1 trong Ngũ Đế); con thứ tên An, cư ngụ ở Tây Thổ (Trường An), hậu duệ là Lý thị, con thứ ba tên Khổn, chuyển tới Bắc Thổ, hậu duệ là Thác Bạt thị, tức tộc Tiên Ti ở thời kỳ Bắc triều.
=> cái nào cũng quy về con cháu Hoàng đế hết =))
Hoàng đế (Công Tôn Hiên Viên): Hiên Viên Hoàng đế là thuỷ tổ của dân tộc Trung Hoa, vốn là họ Công Tôn nhưng người sửa thành họ Cơ, đứng đầu Ngũ Đế (gồm Hoàng Đế, Chuyên Húc, Khốc, Nghiêu, Thuấn). Hoàng đế với Viêm đế là thuỷ tổ của dân tộc Hoa Hạ (Hoàng đế đánh bại Viêm đế, bộ lạc của 2 người dần dần dung hợp thành tộc Hoa Hạ, tộc Hoa Hạ sau đó dưới triều Hán xưng là người Hán, sau đó triều Đường xưng là người Đường). Theo thần thoại thì đây là thượng đế của thần giới.
2. Tam hoàng ngũ đế:
Tam Hoàng Ngũ Đế (chữ Hán: 三皇五帝) là thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, và là các vị vua huyền thoại của Trung Quốc trong thời kỳ từ năm 2852 TCN tới 2205 TCN, thời kỳ ngay trước thời nhà Hạ.
Tam Hoàng (三皇) là ba vị vua đầu tiên của nước này. Ngũ Đế (五帝) là năm vị vua nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung Hoa, đưa dân tộc này thoát khỏi tình trạng sơ khai. Trong thời kỳ này, người Trung Quốc đã biết chế ra lửa để nấu chín thức ăn, biết cất nhà, làm quần áo, trồng ngũ cốc, chài lưới, thực hiện lễ nghi, và bắt đầu tạo ra chữ viết. Theo truyền thuyết, ba vị vua này được cho là thần tiên hoặc bán thần, những người đã sử dụng các phép mầu để giúp dân. Do phẩm chất cao quý nên họ sống lâu và thời kỳ cai trị của họ hòa bình thịnh vượng.
Các học giả Trung Hoa không nhất trí với nhau về Tam Hoàng cụ thể là ai.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, ba vị vua là:
Thiên Hoàng – 天皇 (trị vì 18.000 năm)
Địa Hoàng – 地皇 (trị vì 11.000 năm)
Nhân Hoàng – 人皇 (còn gọi là Thái Hoàng – 泰皇) (trị vì 45.600 năm).
Vận Đẩu Xu (運斗樞) và Nguyên Mệnh Bao (元命苞) cho rằng ba vị là:
Phục Hi
Nữ Oa
Thần Nông
Trong đó, Phục Hi và Nữ Oa là thần chồng và thần vợ, được coi là tổ tiên của loài người sau một trận đại hồng thủy. Cũng như Thần Nông là người đã phát minh ra nghề nông và là người đầu tiên dùng cây cỏ làm thuốc chữa bệnh.
Các sách Thượng thư đại truyện (尚書大傳) và Bạch hổ thông nghĩa (白虎通義) thay thế Nữ Oa bằng Toại Nhân (燧人), người phát minh ra lửa. Sách Đế vương thế kỉ (帝王世紀) thay thế Nữ Oa bằng Hoàng Đế (皇帝), người được coi là tổ tiên của người Hán.
Việc thay thế Nữ Oa – một nữ thần – bằng một vị nam thần được cho là kết quả của việc chuyển từ chế độ mẫu hệ thời cổ xưa sang chế độ phụ hệ trọng nam khinh nữ.
Ngũ Đế cũng có nhiều giả thuyết: Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Ngũ Đế bao gồm:
Hoàng Đế (黃帝)
Chuyên Húc (顓頊)
Đế Khốc (帝嚳)
Đế Nghiêu (帝堯)
Đế Thuấn (帝舜)
Theo Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, các vua đó đều do người Trung Quốc tưởng tượng ra, chỉ có Nghiêu, Thuấn có thể coi là bán thực bán huyền (semi-historique). Trong đó, Nghiêu và Thuấn còn được gọi là Nhị Đế, cùng với Đại Vũ (禹), người sáng lập ra nhà Hạ, được Khổng giáo coi là các vị vua kiểu mẫu và là các tấm gương đạo đức. Thượng thư tự (尚書序) và Đế vương thế kỷ lại liệt kê Thiếu Hạo (少昊) thay cho Hoàng Đế.
Sở Từ (楚辭) nói đến Ngũ Đế như là các vị thần ở các phương:
Thiếu Hạo (đông)
Chuyên Húc (bắc)
Hoàng Đế (trung)
Phục Hi (tây)
Thần Nông (nam)
Lễ ký (禮記) đồng nhất Ngũ Đế với Ngũ Thị (五氏), bao gồm:
Hữu Sào thị (有巢氏)
Toại Nhân thị (燧人氏)
Phục Hi thị (伏羲氏)
Nữ Oa thị (女媧氏)
Thần Nông thị (神農氏)
Vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên trong lịch sử là Tần Thủy Hoàng (秦始皇), người đã tạo từ mới cho “hoàng đế” (皇帝) bằng cách kết hợp các danh hiệu “hoàng” (皇) của Tam Hoàng với “đế” (帝 với nghĩa vua-thần).
Truyền thuyết Tam Hoàng Ngũ Đế(三皇五帝)
Tam Hoàng(三皇) bao gồm có 3 thần là Thái Hạo Phục Hi(太昊 伏羲), Viêm Đế Thần Nông(炎帝 神農) và Hoàng Đế Hiên Viên(黃帝 軒轅).
Tam Hoàng đầu tiên là Phục Hi hay được gọi là Thái Hạo(太昊 : là Bầu trời rộng lớn). Phục Hi có thân của con rắn và đầu của con người. Ông ấy đã phát minh ra Bát Quái(八卦) và lưới. Sau đó, ông đã dạy cách câu cá và săn bắn(狩獵) cho con người.
Thứ hai Tam Hoàng là Thần Nông(炎帝 : vua ngọn lửa) thần có thân của con người và đầu của con bò. Thần Nông đã phát minh ra Lỗi Tỉ(耒耜 : một loại nông cụ hay chính là cái cuốc nhổ cỏ) để dạy con người làm nông nghiệp. Sau đó, ông đã làm ra sự trao đổi buôn bán để dạy con người biết buôn bán. Ngoài ra, ông đã phát minh ra thuốc men, Ngũ Huyền Cầm(五絃琴, là đàn ngũ) và Thuật bói toán của Lục Thập Tử Hào(六十四爻). Nói cách khác, ông chính là vị thần của nông nghiệp và thuốc men, âm nhạc, thuật bói toán và kinh tế ở Trung Quốc.
Vị Tam Hoàng thứ 3 là Hoàng Đế Hiên Viên. Người đã dạy con người cách xây dựng nhà cửa, làm quần áo, biết đến thiên văn học, toán học và y học. Sau đó ông ấy cũng đã phát minh ra cỗ xe và văn tự. Một hôm, Hoàng Đế đã gọi tất cả các vị thần ở núi Thái(泰山, là Chủ Phong(主峰) của dãi núi Thái Sơn, miền Nam của tỉnh Sơn Đông(山東省), Trung Quốc). Và Hoàng Đế oai nghiêm đi trên cỗ xe voi bằng bảo thạch. Ông có quyền thế lớn đến mức mà chim bay trên trời cũng phải sợ .Cho nên tất cả các vị thần đã tuyệt đối tuân theo sự chỉ dẫn của ông ấy.
Nhưng trong các vị thần đó,chỉ riêng có Xi Vưu(蚩尤) đã không tuân theo lệnh của Hoàng Đế và luôn mưu tính việc nổi loạn. Xi Vưu có 4 mắt, 6 tay, đầu bằng đồng và trán bằng sắt. Thức ăn của ông ta chỉ là sắt và đá. Và 72 anh em của ông ta là những kẻ hay gây sự nổi danh. Vì vậy Hoàng Đế đã chiêu mộ quân lính trong nước. Sau đó ông ấy đã trấn áp phản loạn của Xi Vưu ở Phản Tuyền(阪泉) và Trác Lộc(涿鹿). Xi Vưu đã chống lại Phong Bá(風伯) và Vũ Sư(雨師) là thuộc hạ cũ của ông ta.Nhưng 2 vị này đã đầu hàng Hoàng Đế. Sau đó, nhiều người muốn Hoàng Đế cai trị lâu dài hơn nữa. Vì thế Hoàng Đế đã cưỡi rồng lên trời với các triều thần. Lúc đó, tuổi thọ của Hoàng Đế là 100 tuổi. Sau đó 5 con trai của Hoàng Đế là Ngũ Đế(5 anh quân của truyền thuyết cổ đại Trung Quốc là Thiểu Hạo(少昊), Chuyên Húc(顓頊), Đế Khốc(帝嚳), Nghiêu(堯), Thuấn(舜)) đã tiếp tục cai trị thế giới con người. KIM MIN JONG(金玟種) 20:37, ngày 3 tháng 3 năm 2011 (UTC).
Nguồn: wiki
* Hoàng đế:
Hoàng Đế (Trung phồn thể: 黃帝, Trung giản thể: 黄帝, bính âm: huángdì), còn gọi là Hiên Viên Hoàng Đế, là một vị vua huyền thoại và anh hùng văn hoá Trung Quốc, được coi là thuỷ tổ của mọi người Hán. Chữ hoàng 黃 ở đây hàm nghĩa sắc vàng, là màu biểu trưng cho hành thổ. Hiểu nôm na “Hoàng Đế” là “Vua Vàng”, khác với hoàng 皇 trong hoàng đế 皇帝 là danh xưng của các vua Trung Quốc kể từ thời nhà Tần (xem bài Tần Thuỷ Hoàng).
Hoàng Đế được coi là một trong Ngũ Đế, theo huyền sử Trung Quốc thì ông trị vì trong khoảng 2698 TCN đến 2599 TCN và là người sáng lập ra nền văn minh Trung Quốc. Theo truyền thuyết, việc ông rút về phía tây tại trận Trác Lộc (涿鹿) đánh thủ lĩnh Xi Vưu (蚩尤) là cái mốc hình thành người Hán. Tham khảo thêm – wiki.
* Viêm đế:
Thần Nông (chữ Hán phồn thể: 神農, giản thể: 神农, bính âm: Shénnóng), còn được gọi là Viêm Đế (炎帝) hay Ngũ Cốc Tiên Đế (phồn thể: 五穀先帝, giản thể: 五谷先帝, bính âm: Wǔgǔ xiāndì), là một vị vua huyền thoại của các dân tộc chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa, một trong Tam Hoàng và được xem là một anh hùng văn hóa Trung Hoa. Theo truyền thuyết, Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền (lễ tổ chức trước khi gieo trồng), cũng như nghề làm thuốc trị bệnh, cho nên trong dân gian có câu Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc (tức Thần Nông dạy dân trồng ngũ cốc). Thần Nông cũng có thể là từ để chỉ tới các thần dân của vị vua nói trên, do cụm từ Thần Nông thị/神農氏/神农氏/Shén nóng shì với chữ thị (氏) có thể được hiểu là thị tộc, bộ lạc, dòng họ hay gia đình. Nó cũng có thể có nghĩa là họ/tên thời con gái (do đàn bà tự xưng mình cũng gọi là thị, có lẽ ẩn chứa truyền thống tiền gia tộc và chế độ phụ hệ). Trong bất kỳ trường hợp nào, Thần Nông khi được hiểu như là một nhóm sắc tộc tiền sử không nên lẫn lộn với Thần Nông khi được hiểu như là “ông tổ” truyền thống, được lấy tên theo đó của nhóm sắc tộc này. Tuy nhiên, do chữ thị (氏) cũng có thể là thuật ngữ danh giá để chỉ một người đàn ông, giống như các từ ngài/quý ông, nên sự mơ hồ là vĩnh cửu: Thần Nông thị/神農氏/神农氏/Shén nóng shì hay chỉ đơn giản là Thần Nông, được sử dụng để nói tới một cá nhân và/hoặc nói tới chức tước của cá nhân đó. Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào từng ngữ cảnh. Tham khảo thêm – wiki.
* Chuyên Húc:
Chuyên Húc (颛顼) là một vị vua thời Trung Hoa cổ đại, một trong Ngũ Đế. Theo Sử ký, ông là người kế vị của Hoàng Đế.
Theo truyền thuyết Trung Quốc cổ đại, ông là Thiên Đế ở phương Bắc, tên là Cao Dương, cháu của Hoàng Đế. Theo Sử ký, Hoàng Đế và Luy Tổ có 2 con trai là Huyền Hiêu và Xương Ý. Xương Ý được phong ở Nhược Thủy, lấy người con gái của thị tộc Thục Sơn là Xương Phó và sinh ra Chuyên Húc.
Sau khi Chuyên Húc kế ngôi, thành tích chính trị thể hiện rõ rệt, xa gần đều phục tùng, trở thành một vị vua quyền uy thời đó…
Sử ký, Ngũ Đế bản kỷ, mô tả ông là người uyên bác, trầm tĩnh, có mưu lược. Ông thông hiểu mọi việc, biết chăm sóc mọi vật, sử dụng đất đai và ghi chép thời tiết; chú trọng việc giáo hóa và định ra các chế độ. Dân các tộc phía bắc tới U Lăng, phía nam tới Giao Chỉ, phía tây tới Lưu Sa, phía đông tới Bàn Mộc đều thuận theo ông. Tham khảo thêm – wiki.
3. Nhà Đường:
Đường triều (618-907), là thời đại được thế giới công nhận là cường thịnh nhất trong lịch sử Trung Hoa. Đường Cao Tổ Lý Uyên năm 618 xây dựng Đường triều lấy Trường An (nay là Tây An Thiểm Tây) đứng đầu. Trong thời kỳ hưng thịnh (thế kỷ 7), mở mang bờ cõi nam tới La Phục Châu, bắc đến Huyền Khuyết Châu, tây chạm An Tức Châu, đông tới Ca Vật Châu. Năm 690, Võ Tắc Thiên 67 tuổi sửa quốc hiệu “Đường” thành “Chu”, dời đô đến Lạc Dương, xưng là Võ Chu, năm 705 Đường Trung Tông Lý Hiển khôi phục lại quốc hiệu Đường, trở về Trường An. Trong thời kỳ Khai Nguyên Đường Huyền Tông thực lực quốc gia đạt tới cực thịnh, sau An sử chi loạn thì từ từ suy yếu, đến năm Thiên Hữu thứ 4 (năm 907) thì diệt vong. Nhà Đường trải qua 21 vị hoàng đế (nếu tính cả Võ Tắc Thiên), 289 năm. Văn hoá, chính trị, kinh tế, ngoại giao thời Đường ở mặt nào cũng có những thành tựu rực rỡ, là quốc gia cường đại nhất thế giới lúc bấy giờ.
Quốc hiệu “Đường” là tên cổ của Tấn, chỉ khu vực trung tâm tỉnh Sơn Tây bây giờ. Theo truyền thuyết vua Nghiêu được xưng là “Đường” thị. Vào thời nhà Chu, ở tỉnh Hồ Bắc hiện nay có một tiểu quốc là Đường quốc. Ông tổ Lý Hổ của Đường Cao Tông Lý Uyên là một trong bát trụ quốc của Bắc Chu, được phong làm “Đường quốc công”, tước vị truyền tới Lý Uyên, đến nhà Tuỳ, Lý Uyên khởi binh, tự xưng là “Đường vương”, sau đó đánh vào Trường An, phế Tuỳ vương, đoạt ngôi vua, xây dựng Đường triều. Sau Đường triều, thời Ngũ Đại có Hậu Đường do Lý Tồn Úc xây dựng và Nam Đường trong thập quốc đều tự xưng là con cháu Đường triều, dùng chữ “Đường” làm quốc hiệu. Trên thực tế, hoàng đế của bọn họ và Đường triều không có quan hệ huyết thống.
Hoàng tộc Đường triều tự xưng là xuất từ danh môn Lý thị Lũng Tây, người Hán, đồng thời gia tộc Lý thị cũng là quý tộc quân sự ở Lũng Tây. Mà theo “Cựu Đường thư” và “Tân Đường thư” thì hoàng tộc Đường triều Lý thị lại là con cháu của Lão tử Lý Nhĩ, hoàng đế khai quốc Đường triều Lý Uyên tự xưng là con cháu xa của quân chủ khai quốc Tây Lương Lý Cảo (351-417, là người Hán, người Lũng Tây).
“Sách phủ nguyên quy” quyển 1
Đường Cao Tổ Thần Nghiêu Đế họ Lý thị, ở Lũng Tây, xuất từ Chuyên Húc, Chuyên Húc sinh Đại Nghiệp, Đại Nghiệp sinh Nữ Hoa, Nữ Hoa sinh Cữu Diêu, con cháu trải qua Ngu (tên triều đại trong truyền thuyết do Vua Thuấn lập nên) Hạ (triều đại) (khoảng từ cuối thế kỷ XXII đầu thế kỷ XXI trước Công Nguyên đến đầu thế kỷ XVII trước Công Nguyên, ởTrung Quốc) đến Lý Quan, liền thành Lý thị, đời Ân Mạt có Lý Trưng Giả, thẳng thắn vạch tội vua Trụ, phải chạy nạn. Lại sửa Lý thành Lý thị.
Năm 1996, phát hiện mộ tiền Đường Lý Luân ở thôn Tân Thị, huyện Nhâm, thành phố Hình Đài. Ngôi mộ cách Đường tổ lăng ở thôn Vương Duẫn, huyện Long Nghiêu, Hình Đài 3 dặm. Chữ khắc trên mộ và bia văn ở Quang Nghiệp Tự cho thấy nguyên quán của Lý Đường là thôn Tân Thị, huyện Nhâm, thành phố Hình Đài bây giờ, đồng thời cũng tiết lộ câu đố nguyên quán Lý Đường.
Trên bia có 7 câu quan trọng là: “Gia phụ Lý (Luân) công vốn là hậu duệ Đường vương, con cháu hoàng đế Lý Hy (tổ phụ của Lý Uyên, sau khi nguyện về hợp tác với lão tổ tông, an tán ở nguyên quán lão tổ công Lý Hy (cố hương): tại khu vực bên trong quận Hình Châu, phía bắc huyện Nhâm, thôn Tân Thị là gia viên lão Lý gia chúng ta cư ngụ mấy đời.”
Lũng Tây Lý thị vốn từ cháu Chuyên Húc Cao Đào, đến đời Lý Quan, khi tới triều Chu thì dùng họ của danh nhân văn hoá Lão tử Lý Nhĩ là thầy của Khổng Tử. Sau đó đến nhà Tần, con trưởng Lý Sùng của Lý Đàm trấn thủ quận Lũng Tây, con thứ Lý Sùng là Lý Dao trấn thủ quận Nam, phong Địch Đạo Hầu, còn tôn Lý Tín làm đại tướng quân, phong Lũng Tây Hầu. Con cháu “Phi tướng quân” Lý Quảng là nhân vật quan trọng của triều Hán. Thời kỳ Nguỵ Tấn, Lũng Tây Lý thị trong thời loạn lạc phục hưng, Tây Lương vương Lý Cảo là vị quốc chủ đầu tiên của Lý thị. Thời Nam Bắc Triều thì Lũng Tây Lý thị mấy đời làm quan to, danh gia vọng tộc, cùng họ Lý ở quận Triệu, họ Thôi ở Thanh Hà, họ Lư ở Phạm Dương, họ Trịnh ở Huỳnh Dương, họ Vương ở Thái Nguyên là ngũ đại cao môn sĩ tộc vùng Trung Nguyên.
[Sứ] phần về nhà Đường quả thật khiến ta giật mình, cứ tưởng Cuồng tử chém gió, hoá ra lại là thật @@
HOÀN KIỂU HỘT XOÀN, hehe
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian